Có thể coi kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một ca vũ tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ X, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc bộ. Địa bàn phổ biến là từ Nghệ - Tĩnh trở ra.
Xưa kia phường chèo do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn, xã. Mỗi phường chèo chỉ khoảng mươi mười lăm người kể cả nhạc công mà bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Người đóng trò gồm đào, kép, lão, mụ, hề. Có khi chỉ cần một đào, một kép, một hề xuất sắc là nổi đình đám. Tính ước lệ của sân khấu chèo không chỉ thể hiện ở diễn xuất mà cả về trang trí. Không có phông màn, chỉ một tấm vải màu ngăn đôi buồng trò và sàn diễn. Hai chiếc chiếu trải ở giữa, khán giả ngồi vây ba mặt, đó là "chèo sân đình". Buổi diễn thường mở đầu bằng điệu hát vỡ nước, một hồi trống rung lên, một người ra giáo đầu... buổi diễn kết thúc có hát vãn trò và trống giã đám.
Chèo thuộc loại sân khấu tự sự (kể chuyện). Giữa người xem và người diễn có sự giao lưu khăng khít. Người diễn ra xưng danh, người xem dễ theo dõi. Cũng như sân khấu tuồng, ở đây trống chầu giữ vai trò đặc biệt. Trống chầu do một người có vai vế, uy tín hoặc tay sành sỏi điều khiển, để cầm trịch buổi diễn, để tỏ ý thưởng phạt, giám định diễn xuất của đào, kép.
Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo đậm màu sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tràn đầy tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh và không kém phần trí tuệ. Tính nhân văn trong các vở chèo rất rõ nét. Quyền con người, thiện thắng ác luôn được đề cập, được khẳng định. Các vở chèo cổ bao giờ cũng kết có hậu theo truyền thống phương Đông. Nhiều vở được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc.
Từ khi ra đời đến nay, tiếng trống chèo có ma lực cuốn hút bao thế hệ khán giả, không kể tuổi tác, địa vị xã hội hay quốc tịch. Nhưng có giai đoạn sân khấu chèo Việt Nam đã trải qua những khó khăn tưởng chừng không đứng vững nổi. Giờ đây, sân khấu chèo đang được khôi phục nhằm giữ gìn và bảo tồn một loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.