Trăm năm cát bụi kim cương
Cập nhật: 14/12/2023
Non nửa thiên niên kỷ, đất và bùn trong cuộc thiên di của người Việt ngày mở nước đã hóa từ bụi đất thành huy hoàng. Gần 500 năm cho một làng nghề với biết bao biến thiên dữ lành của thời cuộc vẫn còn đây cát bụi kim cương cho đời, cho người.

Nghệ nhân tại làng gốm Thanh Hà vẫn ngày đêm giữ lửa cho nghề truyền thống. Ảnh: Tiêu Dao

Trăm năm đất gốm dưới tay người

Làng gốm cổ Thanh Hà (Hội An, Quảng Nam) nép mình bên dòng sông Thu Bồn với vẻ đẹp mộc mạc như từ xưa cũ. Trong sách sử và trong lời kể tự hào của người làng thì từ những năm đầu 1500, gốm đã hình thành ở vùng đất này. Hành trình 500 năm là hành trình của người đi mở đất có gốc gác từ các vùng Nam Định, Hải Dương và Thanh Hóa, họ mang theo sự thương nhớ quê hương xứ sở đầy nghĩa nặng tình thâm được gửi vào đất này của những dòng người thiên di về phương Nam.

Thời kỳ huy hoàng nhất của làng gốm là vào thế kỷ XVI-XVII, sản phẩm của làng được mệnh danh là “thổ sản quốc gia”, dùng để tiến vua. Để có được danh phận ấy, người thợ gốm đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, công sức, cả nước mắt để tạo nên cái tên cho dòng gốm này.

Ngày trước, sản phẩm chủ yếu của người thợ Thanh Hà là các đồ dùng phục vụ đời sống sinh hoạt hằng ngày như chén, bát, chum, vại, bình hoa, chậu cảnh, hình thù các con vật... mang nhiều kiểu dáng, màu sắc phong phú và đặc biệt nhẹ hơn so với các sản phẩm cùng loại của những địa phương khác. Có lẽ một phần nhờ đất sét của dòng sông Thu Bồn bồi đắp và bàn tay khéo léo của người thợ Thanh Hà. Nhưng điều quan trọng nhất, nghề gốm đặc biệt phải có một trái tim, phải có cảm xúc thật sự khi đôi tay trần chạm vào thớ đất sét dẻo.

Ở chốn này, từng con đường, những góc sân đến mái ngói đều được làm từ đất nung. Một cảm giác thật bình yên với không gian xanh của hàng cau trước ngõ và sản phẩm gốm vừa mới tạo hình xong đang được phơi nắng trước khi đưa vào lò nung. Theo lời chia sẻ của những nghệ nhân nổi tiếng lâu đời ở Thanh Hà thì để làm ra một sản phẩm đúng chất gốm của làng Thanh Hà đòi hỏi sự một kỳ công và tâm huyết rất nhiều. Có lẽ một phần nhờ đất sét của dòng sông Thu Bồn bồi đắp và bàn tay khéo léo của người thợ Thanh Hà. Nếu có một sự so sánh, thì sản phẩm gốm của Thổ Hà (Bắc Giang) được làm từ đất sét xanh, còn ở làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) lại được sử dụng sét trắng, gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) lại từ sét vàng nâu, còn gốm Thanh Hà được lấy từ đất sét nâu dọc sông Thu Bồn có độ dẻo và kết dính cao, tạo nên sự độc đáo riêng có của loại gốm xứ này.

Cát bụi huy hoàng

Ngôi làng nhỏ và bình yên này đã trải qua biết bao thăng trầm và sóng gió. Có những thời kỳ tưởng chừng như nghề gốm nơi đây bị rơi vào lãng quên. Thế nhưng, chính nhờ sự tâm huyết và lòng yêu nghề, những nghệ nhân của làng đã một lần nữa làm “sống lại” nét đẹp cũng như giữ được hồn cốt của làng gốm.

Ở làng gốm thuở ấy, vẫn có những người giữ gốm như cái cách riêng của mình để lưu truyền cho ngày sau. Như cụ bà Nguyễn Thị Được (đã qua đời), người dành hơn 80 năm cuộc đời cho gốm cũng đã trăn trở rất nhiều để giữ nghề, truyền nghề cho những người trẻ sau này. Dù nghề gốm lắm nhọc nhằn, nhưng tình yêu cụ dành cho gốm mấy chục năm nay không thay đổi. Hơn 80 năm làm nghề gốm, chưa một ngày lò nung của cụ tắt lửa. Ngày nào cũng thế, dù có lúc bận bịu, hay đau ốm nhưng lò nung của cụ vẫn luôn đỏ rực. Gia đình cụ có đến 6 đời làm gốm. Tài hoa và một đời yêu gốm, cụ đã không ngại mang hết những bí quyết đi truyền dạy cho những người trong làng, chỉ với mong ước là nghề gốm cổ của làng không bị thất truyền.

Những người trong làng được cụ chỉ dạy giờ đã là những người thợ giỏi. Bởi họ biết cụ là một trong hai người cuối cùng ở làng này nắm được chế tác và trực tiếp chuốt thành công nhiều mẫu đất và kỹ thuật nung sành, cả những am hiểu về cách nhận biết trạng thái gốm sành trong khi nung theo kinh nghiệm dân gian bao đời của các thợ gốm tiền bối truyền lại. Bây giờ, con dâu cụ Được là bà Phạm Thị Mỹ Dung - chủ cơ sở gốm Sơn Thúy, là người nữ thợ gốm nổi tiếng và được phong thợ giỏi nhiều lần ở làng gốm Thanh Hà.

Nhưng rồi, một thách thức khác lại đến khi những lò nung tỏa khói giữa miền di sản. Thời điểm đầu những năm 2000, Hội An bắt đầu phát triển du lịch và được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa nhân loại, ngành công nghiệp không khói yêu cầu phải “xanh”. Trước yêu cầu ấy, sự trăn trở của chính quyền, nỗi lo lắng của những người làm gốm lại bùng lên. Trước yêu cầu đổi mới, các lò nung truyền thống gây ô nhiễm khói bụi đã được thay thế bằng lò điện. Những nghệ nhân được học ngoại ngữ, học làm du lịch, các cơ sở làm gốm được thiết kế lại vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi tham quan học tập. Cứ thế, làng gốm lần hồi vực dậy và hồi sinh ngoạn mục.

Có những năm gần đây, khách du lịch lên tới 650.000 người mỗi năm, mang lại doanh thu gần 25 tỷ đồng chỉ với việc bán vé tham quan. Bây giờ, toàn làng nghề có 32 cơ sở đã duy trì sản xuất trở lại. Người làng gốm đã sống được với nghề, ngoài việc bán sản phẩm cho du khách, các cơ sở sản xuất còn được trích lại một số tiền vé tham quan du lịch, sử dụng dịch vụ.

Ông Lê Văn Xê, Trưởng ban quản lý làng nghề gốm Thanh Hà tự bạch: “Hơn 10 năm trước, gốm rơi vào tình trạng không có đầu ra, nhiều người đã tìm hướng đi khác. Những năm gần đây, khi du lịch phát triển, gốm sống trở lại, cả làng nối lại với nghề. Chính quyền địa phương ở đây cũng đã tạo nhiều điều kiện để làng nghề phát triển. Điều này cũng ít nhiều làm hài lòng những người yêu nghề trong làng. Sản phẩm gốm ở Thanh Hà làm ra luôn thu hút du khách địa phương, trong nước và nước ngoài, bởi có đặc điểm riêng không giống ở bất cứ nơi nào. Nhìn cách những người trẻ hăng say và nhiệt huyết với nghề, lớp người cao tuổi cũng thấy an lòng và phấn khởi trước tương lai nghề truyền thống của cha ông”.

Tiêu Dao

Báo Biên Phòng - bienphong.com.vn - Đăng ngày 13/12/2023