Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trên lưu vực châu thổ sông
Hồng thịnh hành một loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc đó là hát Xẩm. Với sự
lan truyền mạnh mẽ, môi trường diễn xướng rộng rãi và đối tượng khán giả đa
dạng, từ một loại hình giải trí lúc nông nhàn, hát Xẩm đã phát triển thành một
nghề kiếm sống của người nghèo nơi thành thị và được truyền dạy từ thế hệ này
đến thế hệ khác. Theo chân những nhà tiểu thương về đất kinh kỳ, Xẩm đã nhanh
chóng thích nghi, và dần trở thành một loại hình văn hóa dân gian đặc sắc ở Hà
Nội.
Câu chuyện về nguồn gốc ra đời và ông tổ nghề của hát Xẩm
gắn với Thánh tích được lưu truyền trong dân gian. Theo Thánh tích, đời nhà
Trần, vua Trần Thánh Tông có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Trần
Quốc Toán vì tranh giành quyền lực nên đã chọc mù hai mắt và đẩy Trần Quốc Đĩnh
vào giữa rừng sâu. Lúc này, ông được Bụt dạy cho cách làm một cây đàn với dây
đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Kì lạ thay, tiếng đàn vang lên những
âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông
ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe
tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người
nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng
cung, vua vời ông vào hát và nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình nhưng
Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có
nghề kiếm sống. Hát Xẩm đã ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông
tổ nghề hát Xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung.
So với các loại hình âm nhạc dân gian khác như ca trù, chầu
văn, chèo…, Xẩm có thể nói là loại hình âm nhạc bám sát văn học dân gian nhất. Lời
ca trong hát xẩm không chỉ phong phú về mặt thể loại: từ ca dao, tục ngữ,
truyện thơ dân gian, đến những bài thơ của các tác giả nổi tiếng như Nguyễn
Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính, Phan Bội Châu… mà còn đa dạng về mặt nội dung. Nội
dung của Xẩm đề cập đến những vấn đề của đời sống xã hội, mang tính nhân văn
sâu sắc. Đó là những tự sự về thân phận, nỗi khổ của những người nghèo khó, với
những cảnh đời ngang trái. Đó còn là những chuyện vui nhẹ nhàng, hóm hỉnh, mang
tính chất châm biếm các thói hư tật xấu, lên án những hủ tục, tố cáo tội ác của
kẻ áp bức, thống trị. Phần lớn lời của các bài Xẩm là do các nghệ sĩ Xẩm tự chế,
có thể coi những người hát Xẩm là những người kể chuyện tài ba.
Hát Xẩm thường tụ nhau thành những nhóm nhỏ từ 2 - 3 hoặc 4
người, gồm vợ chồng, con cái, hoặc anh em, bè bạn... Trong đó, bố hoặc mẹ, hoặc
cả bố và mẹ bị khiếm thị, các con sáng mắt đi theo, vừa để đỡ đần bố mẹ, vừa
học nghề. Trong số này, trưởng nhóm thường là người cầm đàn bầu hoặc nhị, hồ -
tự chơi, tự đệm và hát chính. Những người khác đều phải biết chơi tối thiểu một
nhạc cụ.
Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát Xẩm chỉ gồm đàn nhị và sênh.
Nhóm hát Xẩm đông người có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn. Để
thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo. Đây là loại đàn được phát
triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng trầm. Sênh
dùng đệm nhịp cho hát xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặc
sênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại để tạo âm thanh xúc xắc). Ngoài
ra, đàn đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát Xẩm.
Xẩm có hai làn điệu chính là Xẩm chợ và Xẩm cô đào. Hát Xẩm
chợ là một điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng bằng
lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách; còn hát Xẩm cô đào thì
điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt
giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng. Hát Xẩm cô đào đệm đàn đáy và
sênh phách, không dùng đàn bầu và nhị. Ngoài ra Xẩm còn sử dụng nhiều làn điệu
dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ khác như trống quân, cò lả, hát ví, ru em,
quan họ, chèo,...hoặc ngâm thơ.
Sau này, khi người hát Xẩm ở thôn quê lên các thành thị hát kiếm
sống mới sáng tạo thêm các làn điệu mới như Xẩm tàu điện, bến xe. Tàu điện là
phương tiện giao thông chủ yếu thời bấy giờ. Xẩm tàu điện xuất hiện và đã khẳng
định chỗ đứng như mội loại hình âm nhạc dân gian độc đáo của Hà Nội. Xẩm tàu
điện đã tái hiện những địa danh, những làng nghề, nếp sinh hoạt và cả những gì
đặc thù nhất trong đời sống xã hội của đất kinh kỳ ngàn năm tuổi.
Các làn điệu dân ca khác khi được dùng trong hát Xẩm đã được
"Xẩm hoá" theo phong cách đặc trưng của Xẩm. Trên thực tế, cách gọi
tên các loại Xẩm không phải theo làn điệu mà theo một số tiêu thức khác. Chẳng
hạn, Xẩm thập ân gọi theo tên bài xẩm ca ngợi công đức của cha mẹ, Xẩm anh Khoá
gọi theo tên bài thơ được hát theo điệu xẩm Tiễn chân anh Khoá xuống tàu của Á
Nam Trần Tuấn Khải…
Ngày nay, xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ
khiến cho những giá trị văn hóa truyền thống dần dần bị mai một. Việc lưu giữ,
bảo tồn các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc được đặt ra một cách cấp
thiết. Hát Xẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa mà ẩn chứa trong đó là đời
sống, tư tưởng, tâm hồn của cha ông xưa.
Phạm Phương (TTTTDL) tổng hợp