Làng nón Tây Hồ
Cập nhật: 24/12/2007
Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ (xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế) từ lâu đã nổi tiếng với nghề chằm nón lá truyền thống.

Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây hàng trăm năm và nón bài thơ - một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát từ làng nón Tây Hồ (vùng đất đã từng nổi danh có nhiều cô gái xinh đẹp, làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng).

Quê hương và câu chuyện về nón bài thơ

Con gái làng Tây Hồ chừng mười tuổi thì đã tự học chằm nón và có người suốt đời chỉ theo nghề chằm nón. Còn đàn ông, ngoài việc đồng áng, họ cũng phụ giúp phụ nữ làm công việc ủi lá hay chẻ tre để làm vành nón. Thời kháng chiến, làng Tây Hồ là một căn cứ địa cách mạng vững chắc của quân và dân ta. Người dân Tây Hồ bám đất, bám làng mà sống; đàn ông, thanh niên theo cách mạng; các chị, các mẹ chằm nón, làm ruộng, vừa đảm bảo cuộc sống vừa có lương thực nuôi bộ đội.

Người dân Tây Hồ luôn tự hào vì quê mình là nơi xuất xứ của nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây Hồ như một sự tình cờ: Đó là vào khoảng năm 1959 - 1960, ông Bùi Quang Bặc - một nghệ nhân chằm nón lá, cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ bằng cách, ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón (lúc đó, nón lá ở Huế chủ yếu được bán vào thị trường của các tỉnh phía nam). Hai câu thơ đầu tiên được ông Bặc ép vào chiếc nón là: “Ai ra xứ Huế mộng mơ / Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.

Ban đầu, nón bài thơ được người dân Tây Hồ làm để tặng người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra bán ở thị trường. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là những câu thơ về Huế.

Để làm đẹp cho nón, họ còn ép thêm tranh về sông Hương, núi Ngự cạnh bài thơ. Trải qua một thời gian khá dài, chiếc nón bài thơ là sản phẩm độc quyền của làng nón Tây Hồ. Rồi theo lẽ thường tình, những cô gái làng Tây Hồ đi lấy chồng về các miền quê khác, họ mang theo nghề nón lá truyền thống của mình và nghề làm nón bài thơ được lan truyền rộng rãi khắp các miền quê.

Sau này, nón bài thơ đã trở thành một nét đặc trưng của xứ Huế. Ông Bùi Quang Bặc hiện cũng đã về sống tại Nha Trang, nhưng nếu du khách đến Huế hỏi về xuất xứ của nón bài thơ, thì ai cũng biết đến ông Bặc và coi ông như ông tổ đã làm nên nón bài thơ xứ Huế.

Lưu giữ nghề truyền thống

Đối với người dân Tây Hồ, nghề chằm nón là nghề sống - còn, dù nghề này không mang lại hiệu quả kinh tế cao (bình quân mỗi ngày công người chằm nón từ 30 - 40 ngàn đồng) nhưng nghề này đã giải quyết được một lượng lớn lao động địa phương, nhất là những tháng nông nhàn.

Nhiều gia đình ở Tây Hồ nhờ chằm nón kết hợp với làm ruộng mà cuộc sống ổn định, có điều kiện nuôi con ăn học. Theo chị Võ Thị Trang - người chằm nón từ năm 14 tuổi, đến nay đã hơn 30 năm gắn bó với nghề cho biết, nghề chằm nón tuy không giàu, nhưng cũng có đồng vô đồng ra. Nhờ nghề chằm nón, chị đã nuôi được 4 con ăn học nên người. Đứa con gái út của chị mới 15 tuổi, nhưng đã là một thợ chằm nón lành nghề. Bình quân mỗi ngày gia đình chị Trang chằm từ 7-8 chiếc nón; trừ chi phí tre, lá còn lãi được 50 - 60 ngàn đồng.

Ngày nay, biết bao làng nghề truyền thống đang bị mai một, nhưng nghề chằm nón lá ở Tây Hồ thì vẫn tồn tại với thời gian, bởi dân làng yêu thích và muốn lưu giữ nghề mà cha ông mình đã chọn. Tây Hồ còn là một địa chỉ du lịch của du khách trong và ngoài nước khi đến Huế .
SGGP