Búng Bình Thiên - hồ nước trời nằm trên địa phận 2 xã Khánh Bình và Nhơn Hội là một trong những vùng nước ngọt lớn nhất miền Tây Nam Bộ. Mặt hồ xanh biếc quanh năm soi bóng làng Chăm, làng Kinh bình yên bên bờ. Ở nơi con nước và con người cùng thở, những ngư dân, cán bộ và nghệ nhân vẫn lặng lẽ gìn giữ hồ nước trời như giữ một phần linh hồn vùng biên giới.

Ngư dân chài bắt cá ở búng Bình Thiên. Ảnh: Trọng Nghĩa
Tôi sinh ra ở miệt rừng U Minh, quen mùi khói đồng và màu bùn non. Thế nhưng khi đặt chân đến vùng biên Khánh Bình, nơi con nước nổi ngập trắng đồng, tôi vẫn thấy lòng mình run lên như đứa trẻ mừng rỡ lần đầu gặp sông. Trước mắt, búng Bình Thiên mở ra một khoảng trời phẳng lặng như tấm gương soi, gió lướt qua nhè nhẹ như bàn tay ai vuốt tóc. Màu nước xanh dịu, xanh đằm, khiến tôi có cảm giác như đang nhìn vào đôi mắt trong trẻo của chính vùng đất này.
Sáng ấy, tôi cùng vài phóng viên của Báo và Phát thanh - Truyền hình tỉnh An Giang ngược về miền biên giới xã Khánh Bình tác nghiệp. Người dẫn đường là anh Phạm Thành Lợi - Trưởng Phòng Văn hóa - Xã hội xã Khánh Bình, dáng nhỏ, nói năng nhẹ nhàng, nụ cười hiền như gió đồng.
Thấy tôi cứ cúi nhìn mặt nước xanh ngắt, anh bảo: “Nước búng xanh là do địa hình đặc thù. Nó ăn thông với sông Bình Di (Bình Ghi) ở lạch nhỏ gần cầu C3 trên đường tỉnh 957. Ngoài kia nước nhuộm đỏ phù sa, còn trong búng thì phẳng lặng như đang thở”. Tôi nghe, gật đầu, nhưng vẫn muốn tận mắt nhìn thấy những mối nối của thiên nhiên mà anh nói.

Trẻ em ở làng Chăm. Ảnh: Trọng Nghĩa
Đoàn chúng tôi di chuyển bằng ô tô 7 chỗ. Xe chạy dọc đường tỉnh 957, cầu C3 hiện ra giản dị. Dưới kia dòng Bình Di cuộn nước, còn miệng búng xanh yên như tấm lụa. Ranh giới giữa 2 khối nước khác màu rõ như đường dao khứa trên thớ cá. Tôi chợt nghĩ đến tiếng gọi “Búng Lớn” của người dân. “Búng”, theo lối nói Nam Bộ là chỗ trũng tích nhiều nước.
Các cụ già kể “Búng” gốc tiếng Khmer nghĩa là vùng nước trũng giàu cá, tôm. Búng Bình Thiên gồm 2 phần: Búng Lớn có diện tích mặt nước trung bình hơn 190ha, độ sâu khoảng 6m; còn Búng Nhỏ chừng 10ha, sâu 5m. Cả 2 đều nằm gọn trong địa giới của xã Nhơn Hội và Khánh Bình bây giờ.
Tương truyền, cuối thế kỷ XVIII, trong mùa hạn khốc liệt, một viên tướng Tây Sơn, có người nói là chúa Nguyễn Ánh khi hành quân qua đây đã cắm thanh gươm xuống đất cầu trời ban nước và dòng nước cuộn trào lên mấy chốc thành hồ trong vắt. Dù là ai, những câu chuyện ấy vẫn nuôi lòng tin hiền lành của cư dân miền sông nước. Người ta tin hồ giữ nước như giữ lời thề. Còn tôi, đứng trước khoảng xanh vẹn nguyên ấy, chỉ thấy lòng mình nhẹ tênh như vừa chạm vào sự lặng yên của một truyền thuyết đang thở.
Trải nghiệm đầu tiên của chúng tôi ở búng Bình Thiên là ngồi ghe cùng ngư dân Chau Li, 58 tuổi, đồng bào Chăm, cả đời gắn chặt với nghề giăng lưới. Ghe gỗ nhỏ, chòng chành giữa lớp lục bình ven bờ. Ông Chau Li vừa điều khiển vừa kể: “Vợ chồng tôi không ruộng rẫy, bám búng nuôi 5 đứa con. Mỗi ngày kiếm vài ký cá, đủ sống, miễn tụi nhỏ còn được đi học”. Giọng ông chậm rãi, hiền như nước. Tôi nghe trong đó cả gió bấc của mùa nước ròng và hơi ấm của những phận người bám bờ lặng lẽ.
Ông kể hồi trước cá nhiều, cá lớn, giờ chỉ còn hơn chục hộ bám nghề chài lưới. Trên ghe, ông chỉ cho tôi xem từng nút thắt, từng kiểu mắt lưới theo con nước và loài cá. Tay ông thoăn thoắt, vừa làm vừa nói: “Vuốt lưới phải cho mềm, kẻo cá chạm vào là thấu mùi người mà lẩn”.
Tôi kéo thử, lưới quệt qua mảng rong, nước mát rượi, mùi tảo thoảng như mùi nếp non. Vài con cá linh, cá cóc nhỏ xíu lấp lánh trong mắt lưới. Tôi hỏi sợ mai này búng vơi cá, ông nhìn xa nói: “Cá ít thì mình giữ nước, dạy con nít biết thương cái búng. Mùa thả cá giống, mùa dọn rác, mùa né lưới cạn. Trời cho thì trời giữ, mình cũng phải giữ cùng trời”. Tôi hiểu, ở đây sinh kế và niềm tin cùng chung một dòng chảy.
Buổi trưa, anh Lợi đưa tôi qua ấp Búng Nhỏ, xã Khánh Bình, dừng ở mái hiên nhà ông Lê Văn Nhãn. Năm nay ở cái tuổi 70, da rám nắng, nhưng giọng ông Nhãn vẫn sang sảng. Ông kể chuyện xóm búng như kể mùa màng. “Hồi còn trai tráng, xóm này đêm đêm lấp lánh đèn câu. Cá lội quẫy tận chân sàn. Giờ vẫn sống được nhờ búng nhưng phải gìn giữ”.
Ông nhắc chuyện chính quyền thả cá giống hằng năm, chuyện bà con rủ nhau dọn rác mép bờ. Mắt ông sáng lên khi nghe tin làm du lịch sinh thái gắn với đời sống của người dân. “Miễn sao đừng ồn ào, đừng xáo trộn cuộc sống của bà con, đừng làm đục nước búng là được”, ông Nhãn nói. Tôi nhìn đôi tay nứt nẻ của ông, thấy trong đó nếp nghĩ hiền lành mà chắc bền như sợi dây neo thuyền.
Chiều về, qua những nếp nhà sàn bên bờ búng, tôi nghe vang vọng tiếng kinh cầu từ thánh đường Hồi giáo của làng Chăm. Tiếng kinh như hơi gió lướt qua hàng bông điên điển quanh búng, nhịp đều và xa, gợi một niềm tĩnh lặng khó tả. Từ xa, bóng áo dài trắng của các bà, khăn trùm đầu nhẹ bay trong gió, lẫn với tiếng chân trẻ con đang nô đùa bên xóm búng. Ở nơi này, làng Chăm và làng Kinh luôn quấn quýt, nghĩa tình bền chặt bên nhau như 2 nhánh nước cùng chảy về một dòng.
Người kể cho tôi nghe về đời sống nơi ấy là ông Ha Ri Gia, 63 tuổi, đồng bào Chăm, ngụ ấp Bình Di, xã Khánh Bình. Ông tự hào vì có 25 năm tuổi Đảng, gắn bó công tác ở ấp nhiều năm. Ông nói giọng chậm mà chắc: “Bà con tin ở nhau. Tin vô Đảng, chính quyền. Tin vô kinh sách. Tin vô cái búng này”. Ông cười hiền, râu bạc rung nhẹ theo làn gió bấc.
Chỉ trong một buổi thực tế, anh Lợi đã giúp tôi hiểu nhiều điều về búng Bình Thiên. Tôi hỏi anh về tiềm năng và nỗi lo, anh Lợi nói: “Nhiều khách đến đây mê màu xanh của búng. Mê bữa cơm trên thuyền gọn ghẽ có cá linh kho mía, canh chua bông điên điển, bông súng đồng”. Rồi anh chậm giọng: “Nhưng làm du lịch phải khéo để giữ mặt nước, giữ sinh kế, giữ nếp ăn nếp ở”. Anh Lợi nhắc đến chuyện quy hoạch, chuyện bảo tồn gắn với phát triển du lịch văn hóa, sinh thái, kết nối các tuyến Bảy Núi và Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam.
Tôi hỏi: “Sợ mai này đông quá, búng mất đi khoảng lặng?”. Anh Lợi cười: “Giữ được lặng yên mới là làm được du lịch”. Câu nói ngắn mà tôi nhớ dai. Ở nhiều nơi, người ta dễ say cái đông vui nhưng búng Bình Thiên đẹp vì yên, lạ vì yên và sống được cũng vì yên. Cái yên ấy là vốn quý cần giữ khi nghĩ đến chuyện làm ăn lâu dài. Tôi chợt nhớ lời chú Nhãn: “Đừng làm đục nước búng”.

Xuống ghe ra búng Bình Thiên. Ảnh: Trọng Nghĩa
Buổi chiều, bất ngờ tôi được mời ăn cơm trên một chiếc bè lợp mái đơn sơ. Chủ bè vừa lái vừa cười nói: “Thả bềnh bồng một chút, cho gió lùa mát người”. Bữa cơm chiều giản dị, toàn món đặc sản đồng: Cá lóc nướng trui, cá thát lát ướp sả chiên, ốc bươu luộc, lẩu cá chép giòn, chén mắm me đánh sệt. Trên búng, bữa cơm như bớt mùi khói bếp mà thêm mùi gió. Chén đũa lách tách, nhẹ như tiếng mưa đầu mùa. Ai đó cất tiếng hò. Vài bản nhạc, vài câu vọng cổ bỡn bợt. Bóng chiều tím dần mặt nước. Mặt trời rớt xuống mép rừng, vệt sáng loang ra như ai vẩy một đường cọ cuối cùng. Con thuyền thả mình theo gió. Mặt búng sạm màu rượu chín.
Đoàn chúng tôi rời xã Khánh Bình, rời búng Bình Thiên khi đêm bắt đầu xuống. Trên chuyến xe đêm về Rạch Giá, tôi vẫn nghe văng vẳng những giai điệu vọng cổ, bản nhạc do anh Đoàn Bình Lâm - Bí thư Đảng ủy xã Khánh Bình sáng tác từ cảm hứng búng Bình Thiên. Nó nhắc tôi rằng, viết về búng Bình Thiên không phải để ngợi ca suông mà để nhắc giữ: Giữ nước, giữ cá, giữ sinh kế; giữ nếp văn hóa Chăm, nếp nhà sàn, nếp ăn ở của người Kinh; giữ sự nương tựa lẫn nhau trong cộng đồng; giữ yên tĩnh của mặt nước; giữ “hồ nước trời” trong lòng mỗi người ở vùng đất đầu nguồn để ai đi đâu, về đâu cũng thấy mình đã neo một chỗ bình yên.
Khi ngồi viết bài này, tôi vẫn nhớ buổi chiều muộn chia tay các anh chị trong Thường trực Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình đầy cảm xúc và lưu luyến. Trong ký ức, mặt búng Bình Thiên vẫn giữ màu xanh nguyên vẹn. Có hình ảnh con cò sải cánh trắng ngang trời, có đứa trẻ cúi rửa tay bên mép cầu. Có những vẻ đẹp không cần vội vàng gọi tên. Chúng kiên nhẫn ở lại trong trí nhớ như chiếc ghe nhỏ neo vào cọc tre, chờ con nước lên rồi sẽ đi tiếp. Và biết đâu, trong mỗi người, vẫn có một búng Bình Thiên như vậy - một khoảng nước trong để soi lại lòng mình.
Trọng Nghĩa