Các địa danh xứ biển rất dễ nhận ra bởi một kỳ quan thiên nhiên hay một bờ đá hoang sơ nào đó. Nhưng với La Gi độc đáo bởi một hòn đảo nhỏ đơn côi giữa màu xanh mênh mông, có thể tưởng tượng đó là một nốt nhạc được nâng lên từ những làn sóng biển hiền hòa.
Chỉ vài nét vẽ bờ biển hàng dương và Hòn Bà trên mảng trời xanh biển cả đủ dựng thành biểu tượng xứ biển La Gi tràn nắng và thơ mộng.
Cách bờ biển Đồi Dương Tân Lý, thị xã La Gi (tỉnh Bình Thuận) khoảng hơn 2km có một hòn đảo nhỏ như đột ngột nhô lên được gọi là Hòn Bà. Trên mặt biển mênh mông, đảo mang dáng vóc con rùa khổng lồ đang vươn mình trên sóng bạc bơi về hướng Nam.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tập 12) có ghi rằng: “Đảo thiên Y ở ngoài cửa tấn La Di, phía nam huyện, tục gọi là Hòn Bà. Đảo ấy chu vi hơn 200 trượng, từ mặt nước đến trên đỉnh 30 trượng, cây cổ thụ sum suê. Trên đỉnh núi có ngôi đền cổ thờ tượng đá A-diễn-bà…”.
Đó là theo mô tả của người xưa. Nhưng trên thực tế, Hòn bà chỉ rộng khoảng 2,8 ha, đường vòng bờ chân đảo 700m. Xung quanh đảo là những bờ đá và san hô ngầm nên hiếm hoi chỉ có một bãi cát nhỏ hướng về phía đất liền.
Trời tháng ba êm ả, thuyền máy đi từ cửa biển La Gi mất 40 phút và thuyền không thể cặp sát bờ để tránh va vào gành đá. Lần theo một trăm hai mươi bậc thềm đá để lên đỉnh đảo, ai cũng có cảm giác chập chờn giữa bóng mây trôi và màu sóng nước. Đỉnh đảo cao hơn mặt nước 40m này chỉ có một mặt bằng tương đối dành cho ngôi miếu “Thiên-y-tự” làm nơi thờ Bà Chúa xứ. Nguyên mẫu tượng bà đang ngự trên ngai, mặt quay về hướng đông là một tảng đá do thiên nhiên tạo dựng. Những năm về sau, ngư dân địa phương với lòng sùng bái đã tôn tạo thêm và xây mới tượng Phật Quan Âm đứng cao giữa đỉnh đảo.
Huyền thoại về Hòn Bà qua truyền khẩu nhiều đời, dẫu có những chi tiết khác nhau nhưng vẫn là câu chuyện tình đầy tính sử thi. Người ta kể rằng, xưa có đôi vợ chồng trẻ sống thật hạnh phúc bên nhau trên mảnh đất La Gi khi chưa có dấu chân người, tưởng chừng không có gì thay đổi được. Một hôm người chồng thẫn thờ nghe tiếng con chim lạ hót đã gieo vào lòng chàng bao điều nghĩ ngợi, bàng hoàng. Thế rồi chàng xách ná, tên đi theo tiếng chim mãi về hướng núi xa, với hy vọng sẽ gặp điều may mắn. Đến một vùng đất lạ, thú rừng không gặp nhưng ở quanh chàng hiện ra khung cảnh của ngàn hoa và những hình bóng mỹ nữ diễm kiều. Chàng quên cả lối về với người vợ chân quê.
Ở nhà, nàng nóng lòng bên chảo nước réo sôi, lửa lại sắp tàn, mòn mỏi ngóng chờ chàng mang về những con thịt rừng và tấm da thú màu lông sặc sỡ. Ngày tiếp ngày, nàng vẫn kiên trì nhóm hồng bếp lửa để giữ cho chảo nước luôn sôi. Nhưng trong một đêm được báo mộng, người vợ hiểu ra chàng đã phụ bạc, quay lưng với tình yêu nồng ấm ngày nào nên nàng nổi cơn ghen, hất đổ chảo nước đang sôi như một lời thề đoạn tuyệt. Nàng dậm chân ba dậm, Động Bà Sang bỗng tách một phần đất để trở thành hòn đảo cô đơn chia lìa với bao kỷ niệm. Đó là Hòn Bà!
Trên phần đất tiếp giáp giữa huyện Hàm Tân và Xuyên Mộc (Bà Rịa –Vũng Tàu) có suối nước nóng Bình châu. Người ta nói là dấu tích chảo nước sôi bị bà đạp đổ. Còn nói về người chồng, có lẽ gặp điều trắc ẩn mà không có cơ hội giải bày nên ngàn năm đứng mãi ở ngọn núi cao, trông ngóng về hướng biển đông thương nhớ người vợ thủy chung. Địa danh Núi Ông ở huyện Tánh Linh (Bình Thuận) lại gắn với sự tích ở miền biển này.
Ở ngay lối lên đỉnh Hòn Bà có một am thờ ông Cai, cạnh gốc cây trôm già. Có một câu chuyên nhỏ: Người ta nói có một thương buôn khi c?p thuy?n ghé đảo núp gió, rung động trước nhan sắc của người chủ đảo, không cầm lòng được nên đã lỡ lời thô lỗ, suýt vong mạng. Nhưng Bà đã tha thứ và người thương buôn này xin tình nguyện làm kẻ hầu hạ bà suốt đời.
Huyền thoại về Bà Chúa Ngọc đậm nét phong tục, tập quán dân tộc Chăm trong thần thoại Po-I-Nư-ga nhưng được pha trộn những đặc trưng về chuyện bà Chúa Ba Nam Hải và gần gũi với tình cảm của người dân lao động biển ngày xưa. Sự tích bà Thiên Y A na được thờ ở điện Hòn Chén (Ngọc Trản) làng Hải Cát (Thừa Thiên) và tại Tháp Bà (Nha Trang) với bài bia của Phan Thanh Giản lập từ năm 1856, nói về cô con gái của một gia đình nghèo nhưng nết na, duyên dáng do bị rầy la nên hoá thân vào khúc gỗ kỳ nam trôi dạt trên biển. Như duyên trời đã định, thái tử Trung Quốc vớt đem về và từ thân cây kỳ nam hiện ra một mỹ nhân, thái tử xin vua cha cho kết hôn với nàng. Nhưng vẫn một lòng thương nhớ quê nghèo, nàng mang hai con biến vào cây gỗ trầm hương xuôi về nam để trở về thờ phụng cha mẹ và dạy dân nhiều cách mưu sinh. Sau này người dân Chăm nhớ ơn, tạc tượng trên núi để thờ và với người vùng biển coi như nữ thần cứu nhân độ thế.
Những tán cây xanh cổ thụ với vô số khối đá muôn vẻ muôn hình, quanh năm xanh biếc như được đánh thức để định hướng cho những con thuyền khẳm đầy cá mực từ khơi xa về lại bến bờ. Hòn Bà, chiếc phao tin cậy cho những con thuyền mải mê trên ngư trường rộng lớn, hấp dẫn của nghề cá La Gi .
Dùng chiếc dao sắt hoặc viên đá để tự khai thác những con hào có bộ vỏ sần sùi bám trên gành đá ẩm mặn nhiều vô kể. Một chút muối tiêu, chanh đã đủ nghe hương vị của biển trời. Độc đáo là những con “vú nàng”, khi được luộc chín thì không còn thứ mỹ vị nào sánh được và phải nhớ mãi như kẻ tương tư…
Ngồi trên gành đá chân đảo nhìn qua làn nước biếc xanh như ngọc, thấy những chòm san hô lấp lánh và từng đàn cá tôm hồn nhiên bơi lội dễ quên ta đang ở giữa biển mênh mông.
Khung cảnh hữu tình như thế nên có lời ví von: “Hòn Bà là động tiên sa”. Điều đó thật thấm thía khi từ nơi đây nhìn vào đất liền bắt gặp mái phố La Gi và Đồi Dương xa tắp, mới cảm nhận hết điều kỳ diệu của thiên nhiên.
Ngày 23 tháng 3 âm lịch hằng năm là ngày vía Bà, cũng là ngày lễ hội cầu ngư của người dân xứ biển địa phương.