Diều sáo Bắc Bộ là sự kết hợp tinh tế giữa hình dạng đơn sơ của cánh diều và tiếng sáo vi vút trên không trung.
Không quá đơn giản như diều Nam Bộ vốn chỉ là một thú vui giải trí của trẻ em, không cầu kì, bắt mắt và đa dạng như diều Huế - mang đậm dấu ấn cung đình, diều sáo của Bắc Bộ là sự kết hợp rất tinh tế giữa hình dạng đơn sơ của cánh diều và tiếng sáo vi vút trên không trung.
Men theo con đường triền đê sông Hồng, về tới làng Bá Dương Nội (Đan Phượng, Hà Nội) nơi được cho là khởi nguồn của cánh diều sáo, nơi những truyền thuyết bắt đầu…
Tương truyền tại đền Đức Thánh Cả của làng, cánh diều sáo truyền thống đã có hơn ngàn năm tuổi. Chuyện rằng xưa kia, khi trời - đất giao hoà, con người và thần tiên luôn quấn quýt bên nhau không muốn rời xa. Bỗng một ngày thảm hoạ ập đến, thế gian tăm tối, trời và đất bị chia cắt. Bầu trời thì cứ cao dần lên, tách xa khỏi mặt đất. Thần tiên và con người không làm cách nào gặp được nhau gây nên bao nỗi niềm thương nhớ. Vậy là cánh diều đã ra đời, nối sợi dây tình cảm giữa bầu trời và mặt đất, mang theo tiếng sáo du dương bày tỏ tấm lòng của người dưới hạ giới với người cõi trên.
Cánh diều là biểu tượng cho những ước mong, khát vọng của cư dân Việt, luôn muốn được bay cao hơn, xa hơn. Cánh diều bay trên không trung mang chở tình yêu đối với quê hương, xóm làng của người nông dân, cất lên niềm hy vọng luôn mưa tạnh, gió hoà trong công việc đồng áng. Thời khắc để thả diều phải là những ngày trời quang, mây tạnh, cánh diều được đưa bởi ngọn gió nồm nam mới lên cao, tiếng sáo mới vang xa.
Diều sáo đúng như tên gọi của mình, gồm 2 phần chính: diều và sáo, được làm nên bởi những nguyên liệu thân thuộc, sẵn có ở hầu hết các làng quê. Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm (hiện đang là Chủ Nhiệm Câu Lạc Bộ Diều Việt Nam): “Ngày xưa, các cụ làm diều sáo hầu hết đều bằng tre. Từ thân diều đến sáo diều, lồng cuộn dây và chính dây diều cũng làm bằng tre”.
Để có một con diều tốt, một bộ sáo hay cũng mất nhiều công phu và sự tận tâm. Ống sáo diều được chọn lựa kĩ càng từ những cây tre già, loại tre đanh, chắc, gặp nắng mưa không bị nứt nẻ, khi làm sáo mới có tiếng vang, có bề sâu và có hồn. Ống sáo được chia làm hai phần bởi vách ngăn ở giữa bằng gỗ. Hai phần càng đều nhau thì tiếng kêu của sáo mới càng cộng hưởng, càng vang xa. Mặt sáo được đẽo gọt bằng các loại gỗ nhẹ, mềm như gỗ vàng tâm, gỗ mít, gỗ dổi bởi nó có độ bền cao. Mặt sáo quyết định âm thanh to nhỏ, đổ hồi mau thưa của sáo. Miệng sáo phải được khoét thật cân, lệch một chút là đã có thể làm méo tiếng sáo. Phần khung diều được làm từ hai nan tre, uốn thành hình cánh cung để đón gió. Mới nghe qua cũng đủ để thấy được sự cẩn trọng và chi tiết trong việc làm diều.
Nhưng công phu nhất, theo các cụ truyền lại thì phải kể tới việc làm dây diều. Cũng theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm, cứ mỗi khi cuối xuân đầu hạ, người ta lại tìm những cây tre bánh tẻ óng mượt, đẵn, rồi chẻ nhỏ thành những sợi nan, tuỳ theo kích cỡ của diều mà sợi được vót to hay nhỏ. Những sợi nan ấy được đem luộc từ 7 đến 8 tiếng cùng với một chút muối, sợi trở nên mềm, dẻo và đặc biệt là rất bền.
Cái tinh tuý của sáo diều Bắc bộ không chỉ nằm ở việc làm diều, mà nó còn được thể hiện qua cách chơi diều. Căn cứ vào độ ẩm không khí, thời tiết và sức gió, người ta mới quyết định có nên thả diều hay không. Khi đủ điều kiện thuận lợi, cánh diều đón gió bay vút lên không trung, mang theo tiếng sáo vi vu, vang xa khắp xóm làng. Người làng mỗi khi nghe được tiếng sáo cũng bỗng chốc cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng và thư thái.
Tiếng sáo diều truyền thống không chỉ đơn thuần là một âm thanh, nó được kết hợp bởi nhiều ống sáo khác nhau, bao gồm ốc, chuông, chiêng, còi. Mỗi vùng có sự kết hợp khác nhau, do đó tiếng sáo diều cũng mang đặc trưng của mỗi làng quê. Ngay chính trong làng, mỗi người cũng có tiếng sáo riêng, không lẫn của nhau. Người tinh chỉ cần nghe được tiếng sáo, cũng biết được đó là diều của ai.
Sáo diều ngày nay không còn xuất hiện nhiều tại các làng quê như trước kia, chỉ còn lại tại làng Bá Dương Nội hay một số làng tại Đông Anh (Hà Nội), Hải Dương, Hải Phòng,…