Dưới triều Nguyễn, do nhu
cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực của xã hội, các điều luật bắt buộc
thần dân phải tuân theo, để lưu truyền công danh sự nghiệp của các vua
chúa, các sự kiện lịch sử..., triều đình đã cho khắc nhiều bộ sách sử và
các tác phẩm văn chương để ban cấp cho các nơi. Trong quá trình hoạt
động đó đã sản sinh ra một loại hình tài liệu đặc biệt, đó là mộc bản.
Đây là những tài liệu gốc độc bản.
Mộc bản triều Nguyễn trong hồ sơ di sản được đánh giá như sau:
34.555 bản khắc mộc bản đã giúp lưu lại những tác
phẩm chính văn, chính sử do triều Nguyễn biên soạn, các sách kinh điển
và sách lịch sử. Ngoài giá trị về mặt sử liệu còn có giá trị về nghệ
thuật, kỹ thuật chế tác. Nó đánh dấu sự phát triển của nghề khắc ván in ở
Việt Nam. Chính vì những tính chất quan trọng và giá trị cao mà trong
thời kỳ phong kiến và các nhà nước trong lịch sử của Việt Nam đã rất chú
tâm để bảo quản những tài liệu này.
Mộc bản là những bản gỗ khắc chữ Hán Nôm ngược dùng
để in ra các sách được sử dụng phổ biến dưới triều Nguyễn. Hiện 34.555
tấm mộc bản đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4 - trực
thuộc Cục Văn thư .935 quyển có nội dung rất phong phú và được chia làm
chín chủ đề: lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo - tư
tưởng - triết học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo
dục.
Tài liệu mộc bản triều Nguyễn được hình thành chủ yếu
trong quá trình hoạt động của Quốc sử quán triều Nguyễn (được thành lập
năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng) tại Huế. Ngoài ra, tài liệu này còn
bao gồm cả những ván khắc in được tập hợp từ Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà
Nội) được đưa vào Huế và lưu trữ ở Quốc Tử Giám (Huế) dưới thời vua
Minh Mạng và Thiệu Trị. Từ năm 1960, Mộc bản triều Nguyễn được chuyển
vào Đà Lạt.
Đây là khối tài liệu đặc biệt quý hiếm, do giá trị về
mặt nội dung, đặc tính về phương pháp chế tác và những quy định rất
nghiêm ngặt của triều đình phong kiến về việc ấn hành và san khắc. Những
tài liệu này được coi là quốc bảo, chỉ những người có trách nhiệm và
thẩm quyền làm việc tại Quốc sử quán mới được tiếp xúc và làm việc với
chúng.
Để chế tác tài liệu này phải trải qua một quy trình
chặt chẽ tốn nhiều thời gian công sức: Trước hết, vua ban dụ cho phép
biên soạn sách. Sau đó cơ quan biên soạn dâng tấu xin được nghiên cứu
châu bản để biên soạn sách bản thảo hoàn thành dâng lên vua ngự lãm. Bản
thảo được giao trở lại cơ quan biên soạn bổ sung chỉnh sửa theo ý của
vua. Bản thảo được chép “tinh tả” (rõ ràng). Cơ quan biên soạn lập biểu
dâng sách lên vua ngự phê. Sách sau khi được ngự phê chuyển xuống giao
cho cơ quan san khắc dưới sự kiểm soát của các quan theo chỉ dụ của vua.
Mộc bản sau khi khắc xong các quan dâng biểu xin cho in thành sách. Mỗi
bộ sách chỉ được khắc in khi có lệnh của vua.
Để chế tác tài liệu mộc bản, Quốc sử quán đã phải
tuyển nhiều thợ chạm khắc giỏi. Thợ khắc mộc bản được lựa chọn từ các
địa phương trong cả nước có nghề chạm khắc gỗ nổi tiếng, và kỹ thuật
khắc được sử dụng thì hoàn toàn là thủ công. Những chữ được khắc lên mộc
bản như chứa đựng tất cả tâm huyết của mỗi người thợ. Mỗi chữ Hán - Nôm
trên mộc bản được khắc rất tinh xảo, sắc nét. Mỗi tấm mộc bản không
những là một trang tài liệu quý giá mà còn là một tác phẩm nghệ thuật
độc đáo.
Theo một số tài liệu, những bản khắc mộc bản chủ yếu
sử dụng gỗ thị và gỗ cây nha đồng để khắc, bởi 2 loại gỗ có màu trắng,
thớ gỗ mịn, nhẹ, thường được dùng để khắc dấu không nứt mẻ, không cong
vênh. Vì thế trải qua mấy trăm năm mà đến nay mộc bản vẫn có tình trạng
vật lý tốt. Ngoài ra gỗ lê, gỗ táo cũng được dùng để khắc mộc bản.
Tài liệu mộc bản có nhiều tác phẩm quý hiếm như:
Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ..., ngoài ra còn có các tác phẩm
Ngự chế văn, Ngự chế thi do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức sáng tác.
Hiện nay trên thế giới rất hiếm có những tài liệu mộc
bản khắc in các tác phẩm chính văn chính sử của triều đình như khối tài
liệu này. Nó được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước và những hoạt động của nhiều nhân vật lịch sử tiêu biểu.
Ðây là những tài liệu có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử và
văn hóa Việt Nam thời cận đại.
Ngày 30/7/2009, Mộc bản triều Nguyễn đã là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được công nhận là "Di sản tư liệu thế giới" thông
qua tại kỳ họp từ ngày 29/7 đến ngày 31/7/2009 tại thành phố Bridgetown
(Barbados) của Ủy ban Tư vấn Quốc tế (IAC) thuộc UNESCO. Mộc bản triều
Nguyễn đã chính thức được đưa vào chương trình "Ký ức thế giới" (Memory
of the World Programme) của UNESCO. Mộc bản triều Nguyễn là loại hình
tài liệu đặc biệt quý hiếm của Việt Nam và hiếm có trên thế giới.