Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương bắt nguồn từ thời đại các Vua Hùng với
niềm tin cả dân tộc có cùng chung giống nòi “con Rồng cháu Tiên”, cùng
chung một nguồn cội (Tổ); đồng thời thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn”, tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng.
Theo
truyền thuyết, Lạc Long Quân - con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục
lấy nàng Âu Cơ - con gái Vua Đế Lai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở
thành trăm người con trai. Sau đó, năm mươi người con theo mẹ lên núi,
năm mươi người theo cha xuống biển lập nghiệp. Người con cả theo mẹ lên
vùng đất Phong Châu (nay là Phú Thọ) lập ra nước Văn Lang và được tôn
làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước đầu tiên trong lịch sử của người
Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các Vua Hùng đã dạy dân trồng lúa
nước và chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để thực hiện những
nghi lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thần
mặt trời để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi,
nảy nở. Để ghi nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng, nhân dân đã lập đền
thờ tưởng niệm (khu di tích lịch sử đền Hùng) mà trung tâm là núi Nghĩa
Lĩnh và lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ. Từ trung
tâm thờ tự đầu tiên này, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần lan tỏa, có
sức sống lâu bền từ đời này qua đời khác, từ đồng bằng lên miền núi, từ
Bắc vào Nam, từ trong nước ra nước ngoài. Đất nước có lúc thịnh lúc suy,
có lúc bị giặc ngoại xâm thống trị nhưng Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
vẫn được các thế hệ duy trì đến tận ngày nay và còn mãi đến muôn đời
sau.
Các
sử liệu cho thấy Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã phát triển mạnh từ
rất lâu trước khi chính thức được vinh danh vào thời Hậu Lê (1428 -
1788). Những triều đại phong kiến đều rất chú trọng và khuyến khích
người dân duy trì Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Nhà Hậu Lê, Tây Sơn và Nguyễn liên tục sắc phong cho các đền thờ Vua Hùng tại Phú Thọ,
pháp điển hóa nghi thức thờ cúng, miễn thuế và cấp ruộng đất tại khu
vực xung quanh đền để người dân canh tác, thu hoa lợi và coi sóc đền
thờ. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước đều rất quan tâm tới việc thờ cúng
các Vua Hùng, cấp kinh phí để tôn tạo không gian thờ cúng, đưa truyền
thuyết Hùng Vương vào chương trình giảng dạy để giáo dục thế hệ trẻ, cho
phép nhân dân cả nước nghỉ lễ ngày giỗ Tổ (mùng 10 tháng 3 âm lịch) để
tham gia, tổ chức các hoạt động tế lễ hướng về cội nguồn dân tộc. Tổng
số trên cả nước có 1.417 đền thờ Vua Hùng.
Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có nhiều hình thức đa dạng, điển hình là
việc Vua Hùng được phối thờ (thờ chung) với nhiều nhân vật như các công
chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa; các Hùng hầu, Hùng tướng; Tản Viên Sơn Thánh;
Hai Bà Trưng… tại các cụm di tích ở Phú Thọ. Hình thức phối thờ với Long
Hải Đại Vương, Phù Đổng Thiên Vương, Mai An Tiêm, Chử Đồng Tử, các con
Lạc Long Quân... cũng phát triển khá mạnh tại Hà Nội, Thái Bình, Hải
Dương, Thanh Hóa... Tại nhiều nơi, các Vua Hùng còn được người dân phối
thờ tại bàn thờ dòng họ. Người Việt Nam sống ở nước ngoài khi có dịp
cũng “thỉnh” chân hương tại đất Tổ (Phú Thọ) để mang về cắm trên bàn thờ
của gia đình.
Hàng
năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức ở
các đình, đền thờ Vua Hùng trên khắp cả nước, trong đó nghi lễ lớn nhất
diễn ra tại khu di tích lịch sử đền Hùng. Tại Phú Thọ, các làng có đình,
đền thờ Vua Hùng mỗi năm đều cử ra một Ban Khánh tiết gồm 6 – 9 người
đàn ông để chủ trì và điều hành nghi lễ thờ cúng. Ban Khánh tiết lại
chọn ra một Thủ từ có nhiệm vụ trông coi, hướng dẫn thực hành ở nơi thờ
tự, quanh năm hương khói cho Vua Hùng.
Bên
cạnh đó, việc lựa chọn Chủ tế và đội tế luôn được các làng tuân thủ
khắt khe. Khi làm Chủ tế, bản thân người được chọn phải luyện tập các
động tác lễ bái cho thuần thục để điều hành hoạt động của đội tế.
Lễ
vật chuẩn bị cho các buổi lễ (từ lễ mở cửa đến lễ rước, lễ đóng cửa
đình/đền) đều được lựa chọn và chuẩn bị cẩn thận, chủ yếu gồm xôi/oản,
hoa quả, rượu, vàng hương, gạo, muối, gà luộc (gà trống thiến), thịt lợn
sống (lợn đen), bánh chưng và bánh dày…
Các
hoạt động của lễ hội được tiến hành theo lộ trình rước kiệu từ miếu về
đình/đền, sau đó đi quanh làng rồi trở về nơi xuất phát. Thứ tự các đội
rước cũng được quy định rõ ràng, đầu tiên là đội múa rồng/lân, tiếp theo
là đội cờ thần, đội kiệu lễ, phường bát âm, hai hàng bát bửu và bát
khí, đội kiệu long đình (rước lô nhang), đội kiệu ngai và bài vị, đội
tế, và cuối cùng là dân chúng. Nghi thức cúng tế gồm có lễ dâng hương,
dâng lễ vật, đọc chúc văn, cầu cúng, trình diễn các diễn xướng truyền
thống như đánh trống đồng, Hát Xoan, rước nước, lễ cầu đảo...
Trong
thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống
như bịt mắt bắt dê, kéo co, cướp cờ, thi bơi, bắt vịt trên ao/sông, quây
lợn, trò trám, đánh phết, bắt chạch trong chum, trò tùng rí…
Với
những giá trị độc đáo và riêng biệt, ngày 6/12/2012, tại Paris (Pháp),
UNESCO đã chính thức công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ
là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là di sản đầu tiên của Việt Nam
được vinh danh ở loại hình tín ngưỡng. Đây cũng là lần đầu tiên UNESCO
công nhận tín ngưỡng thờ Tổ là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Phạm vi công nhận của di sản gồm 109 làng có đình, đền thờ
Vua Hùng thuộc thị xã Phú Thọ, thành phố Việt Trì và các huyện Cẩm Khê,
Đoan Hùng, Hạ Hòa, Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Ba, Thanh Sơn,
Thanh Thủy, Yên Lập (tỉnh Phú Thọ).
ĐIỂM THAM QUAN
- Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân;
- Đền Tổ mẫu Âu Cơ;
-
Đền Hùng;
-
Bảo tàng Hùng Vương.